Emerald Nhân Tạo Và Các Loại Beryl Nhân Tạo Khác (Bản tin tháng 08/2012)

Hình 9: Emerald nhân tạo nhiệt dịch Malossi có trên thị trường từ năm 2004. Mẫu đá thô bên trái (dài ~6 cm) có chứa các vi tinh thể phenakite nhân tạo màu trắng ở một vài khu vực. Ảnh chụp bởi Ilaria Adamo.

Xuất hiện trên thị trường kinh doanh đá quý từ năm 2004, sản phẩm của Malossi (được cho là được sản xuất ở Cộng Hòa Czech sử dụng công nghệ Italy) là sự phát triển mới duy nhất đối với loại emerald nhân tạo trong những năm 2000 (xem hình 9 và bài viết của Adamo và nhóm nghiên cứu, 2005). Đây được cho là dạng mới của emerald nhân tạo với màu sắc được quy định duy nhất bởi ion Cr3+. Các cấu trúc tăng trưởng rất đặc trưng thường gặp trong khoáng vật tăng trưởng nhiệt dịch lại không thấy trong các mẫu đang được nghiên cứu. Tuy nhiên phương pháp tăng trưởng trong báo cáo này lại giống với những gì mô tả cho loại emerald nhân tạo nhiệt dịch khác: đó là việc sử dụng phiến phôi mầm beryl thiên nhiên trong nồi dung dịch chưng cất. Những người sản xuất cho biết rằng acid hydrocloric được dùng để ngăn chặn Cr kết tủa ra khỏi dung dịch, vì thế nó có thể kết hợp vào tinh thể (Adamo và nhóm nghiên cứu, 2005); những đặc điểm phổ hấp thu trong vùng giữa hồng ngoại phù hợp với báo cáo này.

Hình 10: Một đám bao thể nhỏ, có thể là phenakite nhân tạo được thấy trong emerald nhân tạo nhiệt dịch Malossi. Ảnh chụp hiển vi bởi Renata Marcon; phóng đại 50 lần.

Việc phân biệt giữa sản phẩm của Malossi và emerald tự nhiên là tương đối dễ dàng. Những đặc điểm tăng trưởng không theo qui luật, phiến nhân mầm kết tinh và các tinh thể giống phenakite nhân tạo (hình 10) tất cả rõ ràng là có nguồn gốc nhân tạo. Về mặt hóa học, sự hiện diện tập trung Cl lớn hơn 0,2 wt.% và thiếu các nguyên tố vi lượng khác có thể cung cấp thêm bằng chứng là sản phẩm của Malossi, tuy nhiên không nên dựa vào những tiêu chí này để xác định là khoáng thiên nhiên hay nhân tạo khi chúng chỉ tồn tại độc lập. Phổ giữa hồng ngoại cũng có thể hỗ trợ cho việc phân biệt vì sự hiện diện của nhiều dãy hấp thu liên quan đến Cl trong vùng 3100 – 2500 cm-1.

Hình 11: Trong suốt thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, ngoài emerald nhân tạo, Malossi còn tạo ra aquamarine nhân tạo tăng trưởng nhiệt dịch như viên đá thô (14 – 16 g) và mài giác (2,0 – 5,0 ct) chỉ ra ở đây. Ảnh chụp bởi Alberto Malossi.

Mặc dù tính đến những năm 2000, emerald nhân tạo nhiệt dịch của Nga không phải là mới, nhưng báo cáo tổng kết một cách xuất sắc về những mô tả đặc điểm dưới kính hiển vi của chúng mới được ấn bản bởi Schmetzer và những người khác vào năm 2007.

Hình 12: Giống như sản phẩm được tạo ra trước đây ở Nga, beryl màu xanh nhân tạo Malossi từ sự liên kết giữa Czech-Italia có cấu trúc dạng chảy rối đến góc cạnh đặc trưng hay hình dạng ranh giới các sọc phụ hay các sọc tăng trưởng nội. Ảnh chụp hiển vi bởi Ilaria Adamo; phóng đại 25 lần.

Một số aquamarine nhân tạo tăng trưởng nhiệt dịch có màu xanh phớt tím, cũng được báo cáo trong những năm 2000, chúng cũng được tạo ra bởi Malossi, Cộng hòa Czech (Adamo và nhóm nghiên cứu, 2008; xem hình 11). Cũng giống như với aquamarine nhân tạo được miêu tả trước đây (Koivula và Kammerling, 1988) từ công ty Novosibirsk, Nga được đưa vào thị trường qua công ty liên doanh Tairus (Thái Lan – Nga), những aquamarine Malossi mới này cũng có những cấu trúc tăng trưởng dạng chảy rối đến góc cạnh (thường được gọi là dạng răng sói) đặc trưng hay hình dạng ranh giới các sọc phụ hay các sọc tăng trưởng nội (hình 12).

Hình 13: Được sản xuất ở Moscow, nguồn gốc màu sắc của các viên beryl nhân tạo màu đỏ cam và đỏ phớt hồng tăng trưởng nhiệt dịch này là do cobalt (trái và giữa, nặng 1,08 và 1,95g) và mangan (phải, nặng 6,32 g) được đưa vào trong dung dịch dưỡng chất nuôi cấy. Ảnh chụp bởi Robert Weldon.

Mặc dù beryl màu đỏ nhân tạo tăng trưởng nhiệt dịch được tạo ra trong những thập niên trước đây nhưng mãi đến những năm 2001, 2003 thì những mô tả chi tiết của Shigley và  Fumagalli và những người khác mới đặc biệt hữu dụng trong việc phân biệt nó với beryl màu đỏ tự nhiên. Được sản xuất bởi Viện Tinh Thể Học và một công ty liên kết, công ty TNHH Emcom., cả 2 đều nằm ở Moscow, khoáng vật này được tạo ra dưới những điều kiện giống với những điều kiện được dùng để tạo ra nhiều loại beryl nhân tạo khác. Để cho ra màu đỏ, đỏ phớt hồng và đỏ cam (hình 13) thì Co và Mn được đưa vào trong dung dịch dưỡng chất nuôi cấy. Các chỉ số chiết suất và tỷ trọng nằm trong khoảng chỉ số của beryl đỏ thiên nhiên. Dưới kính phóng đại cho thấy đới tăng trưởng hình chữ V, đặc trưng của sản phẩm beryl nhân tạo nhiệt dịch. Nhiều dãy phổ hấp thu được nhìn thấy ở giữa 530 và 590 nm; những dãy này là do Co2+ tạo nên và không nhìn thấy trong beryl đỏ thiên nhiên. Phân tích hóa học cho thấy Co và Ni là 2 nguyên tố vi lượng đặc trưng nhất, tuy nhiên những nguyên tố này cũng không thấy hiện diện trong beryl màu đỏ thiên nhiên. Một đặc điểm nhận biết khác là dãy phổ trong vùng hồng ngoại ở giữa 4200 và 3200 cm-1. Dãy phổ này liên quan đến nước và dãy này không có trong beryl đỏ thiên nhiên, nó được hình thành trong môi trường kết tinh khoáng vật từ các khí tạo thành ở điều kiện nhiệt dịch cao chứa rất ít nước. (Công Ty TNHH Giám Định Rồng Vàng – SJC lược dịch theo Nathan Renfro, John I. Koivula, Wuyi Wang và Gary Roskin trong phần Synthetic Gem Materials in the 2000s, quyển G&G, Winter 2010)